Công tác tổ chức xây dựng Đảng tỉnh Bình Thuận nửa nhiệm kỳ XII

  • /
  • 21.5.2013 - 15:11

Nửa nhiệm kỳ qua, tình hình tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được sắp xếp lại, kiện toàn và từng bước ổn định; chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các tổ chức thường xuyên được rà soát, sửa đổi ngày càng rõ và phù hợp hơn với tình hình thực tiễn và quy định của pháp luật.

             Đội ngũ cán bộ, công chức các cấp ủy được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu ngày càng được nâng lên, đáp ứng cơ bản yêu cầu nhiệm vụ mới. Quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng được rà soát, bổ sung và được thực hiện khá nghiêm túc, thông qua đó vai trò người đứng đầu được phát huy tốt hơn, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là các nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo, quản lý được thể hiện và thực hiện tốt hơn; chế độ tự phê bình và phê bình được duy trì nề nếp. Phương thức lãnh đạo ở các cấp ủy tiếp tục được đổi mới, cụ thể hóa, vừa toàn diện, vừa cụ thể bảo đảm vai trò quản lý nhà nước của chính quyền các cấp; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ từng bước được thực hiện tốt hơn.

Toàn Đảng bộ tỉnh có 511 tổ chức cơ sở Đảng, gồm 218 đảng bộ cơ sở (2.080 chi bộ trực thuộc và 01 đảng bộ bộ phận, tăng 363 chi bộ trực thuộc so với năm 2010) và 293 chi bộ cơ sở, giảm 175 tổ chức cơ sở đảng so với năm 2010 do sáp nhập và thành lập 20 đảng bộ khối đảng, đoàn thể và đảng bộ khối chính quyền cấp huyện. Tiếp tục mở rộng thí điểm bí thư đồng thời là chủ tịch UBND ở 19 xã, phường, thị trấn, huyện Phú Quý, bước đầu phát huy khá tốt hiệu quả của mô hình này. Các tổ chức đảng được đánh giá ngày càng thực chất hơn, từ năm 2010 đến năm 2012, tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh giảm từ 52,80% xuống còn 47,52%, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở trong sạch vững mạnh giảm từ 59,86% xuống còn 52,43%. Các tổ chức đảng yếu kém được quan tâm củng cố. Hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn tiếp tục được quan tâm xây dựng, củng cố; đã xóa 04/05 khu phố, thôn “trắng” đảng viên; thành lập mới 35 chi bộ thôn, khu phố.

Đội ngũ đảng viên tiếp tục được tăng lên cả số lượng và chất lượng, từ năm 2011 đến nay đã kết nạp trên 3502 đảng viên (đạt chỉ tiêu do Đại hội đề ra). Chất lượng đảng viên mới kết nạp được coi trọng; cơ cấu đảng viên nữ, đảng viên trẻ, đảng viên là người có đạo, đảng viên có trình độ học vấn cao, nhất là trình độ đại học, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị … có chuyển biến. Công tác phát triển đảng viên trong học sinh, sinh viên ở địa bàn dân cư, trong các doanh nghiệp được chú trọng hơn. Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từng bước được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện. Đã ban hành các quy định mới về đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách cụ thể, phù hợp với từng chức danh cán bộ; tổ chức tọa đàm về tiếp tục đổi mới nội dung và tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức theo hướng thực chất, cụ thể.

Về công tác quy hoạch cán bộ: đã quy hoạch Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các chức danh chủ chốt của tỉnh nhiệm kỳ đến, đồng thời kiên quyết chỉ đạo việc rà soát, thẩm định, phê duyệt quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành nhiệm kỳ đến (giai đoạn A1) theo hướng “mở”; tỷ lệ cán bộ trẻ được quy hoạch Tỉnh ủy cao hơn so với nhiệm kỳ hiện nay. Đã ban hành các đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn; tiếp tục thực hiện đề án đào tạo 30 tiến sĩ, 70 thạc sĩ ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách của tỉnh (gọi tắt là Đề án 100) và đề án 165 của Trung ương; Đề án đào tạo 70 - 100 cán bộ trẻ dự nguồn lãnh đạo, quản lý của tỉnh. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành của tỉnh tăng cả về số lượng và chất lượng (so với cuối năm 2010 tăng 2,31% ), từng bước được sắp xếp, bố trí hợp lý hơn; tỷ lệ cán bộ là nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ huyện Phú Quý được tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt (so với cuối năm 2010 cán bộ nữ tăng 2,94%, cán bộ trẻ tăng 14,29%). Công tác bảo vệ chính trị nội bộ tiếp tục được thực hiện chặt chẽ ngay từ cơ sở; ngoài việc quan tâm đến lịch sử đã chú trọng hơn quan hệ chính trị hiện hành, phối hợp tốt hơn với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ đảng; triển khai thực hiện nghiêm túc chính sách sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị; đã tham mưu ban hành Chỉ thị tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trước khi ra nước ngoài công tác, học tập, lao động.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, công tác tổ chức xây dựng Đảng đã bám sát sự chỉ đạo của Ban Tổ chức Trung ương và Ban Thường vụ Tỉnh ủy để triển khai thực hiện khá đồng bộ các lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng, đạt kết quả khá toàn diện nhất là triển khai thực hiện các chủ trương, biện pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay” góp phần quan trọng tạo chuyển biến bước đầu khá tích cực về công tác xây dựng đảng trong Đảng bộ tỉnh. Các nhiệm vụ trọng tâm và đột xuất được hoàn thành với chất lượng ngày càng tốt hơn. Công tác cán bộ được thực hiện đúng quy định, một số khâu từng bước được đổi mới. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và đảng viên tiếp tục được quan tâm; đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng ngày càng thực chất hơn. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được chú trọng ngay từ cơ sở.

Tuy nhiên, về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở còn trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả thấp. Công tác đào tạo cán bộ chưa gắn với quy hoạch, bố trí, sử dụng. Đội ngũ cán bộ của tỉnh nhìn chung vẫn còn bất cập, vừa thừa, vừa thiếu. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ, cán bộ trẻ tuy có tăng hơn nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số ở cấp huyện chưa tương xứng với đặc điểm, điều kiện của từng nơi. Năng lực nắm bắt, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; kỹ năng giải quyết, xử lý tình huống phát sinh còn yếu; một số ít cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng chuyển biến chưa đều; tỉ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh chưa đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp còn hạn chế. Công tác phát triển đảng viên mới có nơi còn sai phạm về nguyên tắc, thủ tục theo quy định Điều lệ Đảng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được tăng cường đúng mức.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do: nhận thức, quán triệt, triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tổ chức xây dựng Đảng thiếu thường xuyên và chưa đồng bộ. Ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện của một số cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của cấp ủy các cấp chưa thường xuyên.

Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn: Phải vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước; thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể gắn liền với phát huy đúng mức vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu. Phải phát huy đúng mức dân chủ để phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức; quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để thực hiện có hiệu quả công tác tổ chức xây dựng Đảng từ nay đến cuối nhiệm kỳ XII, cần tập trung những việc sau đây:

Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Đặc biệt coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và quản lý, kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, đội ngũ cán bộ nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành; quan tâm đúng mức cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; đặc biệt là cán bộ trẻ nhằm bảo đảm tính kế thừa trong đội ngũ cán bộ; kịp thời thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, làm việc cầm chừng hoặc uy tín giảm sút. Thường xuyên rà soát bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế làm việc, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, trước hết cần tập trung nâng cao chất lượng các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và luân chuyển cán bộ; đổi mới nội dung, phương pháp đánh giá cán bộ gắn với đánh giá chất lượng và khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên hàng năm theo hướng coi trọng thực chất. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ; triển khai Kế hoạch thí điểm bố trí cán bộ lãnh đạo một số ngành cấp huyện không phải là người địa phương.

Thực hiện tốt các chính sách cán bộ theo quy định của Trung ương và của Tỉnh. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành chính sách về nhà ở đối với cán bộ được điều động, luân chuyển; chính sách thu hút các chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ cao, sinh viên sau khi tốt nghiệp về tỉnh công tác; chính sách đưa cán bộ trẻ đã tốt nghiệp đại học về công tác ở cấp xã; chính sách thuê chuyên gia giỏi (kể cả chuyên gia nước ngoài) về làm việc trong một số ngành, lĩnh vực có lợi thế của tỉnh.

 Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng quan hệ chính trị hiện nay, đồng thời thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 16-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị.

                                                                 Trần Văn Dũng


  • |
  • 1559
  • |

Các tin khác

QUẢNG CÁO