ĐẢNG BỘ BÌNH THUẬN TỔNG KẾT 10 NĂM THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG SỐ 15-NQ/TU NGÀY 17/4/2008 VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 30/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XI) đã tổ chức phổ biến, quán triệt các nội dung nghị quyết cho các đồng chí cán bộ chủ chốt nguyên chức và đương chức của tỉnh; đồng thời, chỉ đạo tổ chức đánh giá tình hình tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh. Ngày 17/4/2008, Tỉnh ủy (khóa XI) ban hành Chương trình hành động số 15-NQ/TU về thực hiện Nghị quyết số 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X).

Qua 10 năm triển khai thực hiện Chương trình hành động 15-NQ/TW của Tỉnh ủy (khóa XI) về thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” từ cấp cơ sở cho đến cấp tỉnh đã có những tác động tích cực, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nổi rõ là:

- Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và cấp ủy trực thuộc tỉnh được các cấp ủy đảng phổ biến đầy đủ, kịp thời. Việc cụ thể hóa các Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên sát hợp với tình hình của địa phương, đơn vị; xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể hơn, có phân công, phân việc cho tổ chức, cá nhân và quy định thời gian hoàn thành. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác và lề lối làm việc của cấp ủy ở cơ sở được xác định rõ hơn. Nhiều tổ chức Đảng đã phát huy tốt hơn vai trò hạt nhân lãnh đạo hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, dẫn đến hoạt động của chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội có chuyển biến tiến bộ, hiệu quả hơn, nhất là trong việc lãnh đạo, quản lý, điều hành, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Quá trình lãnh đạo, điều hành, các cấp ủy, người đứng đầu ngày càng chú ý chỉ đạo giải quyết những nhiệm vụ còn tồn tại, hạn chế, phát sinh, thể hiện được trách nhiệm, vai trò gương mẫu trong thực hiện nghị quyết, kế hoạch đề ra. Các mặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, vận động quần chúng và kiểm tra, giám sát, đều được cấp ủy, chi bộ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện thường xuyên và đạt được những kết quả tích cực trên các mặt.

- Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên ngày càng chặt chẽ hơn, qua đó kịp thời nhắc nhở, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đảng viên có dấu hiệu vi phạm, từng bước nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng tiếp tục được giữ vững. Công tác tạo nguồn, kết nạp đảng viên mới tiếp tục được quan tâm, hàng năm luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được duy trì; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên bình quân chiếm 70%. Tổ chức bộ máy, nhân sự lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan, ban ngành, địa phương và cấp ủy cơ sở từng bước được bố trí, sắp xếp, kiện toàn, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chuyển biến; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên luôn được các cấp ủy trực thuộc chỉ đạo kịp thời, hiệu quả. Từ đó, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng được nâng lên, tổ chức đảng ngày càng mạnh hơn, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò “hạt nhân chính trị” ở cơ sở.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nghiêm túc nhìn nhận, vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực thực hiện; đó là:

Công tác chỉ đạo, rà soát, bổ sung quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các tổ chức chưa được chú trọng đúng mức, một số nội dung của quy chế chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Hoạt động của một số cấp ủy nhìn chung vẫn còn tình trạng vừa bao biện, làm thay, vừa buông lỏng sự lãnh đạo đối với hoạt động của chính quyền; năng lực của không ít cấp uỷ cơ sở còn yếu, rõ nhất là năng lực cụ thể hoá Nghị quyết của cấp trên; một số chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước chưa được triển khai thực hiện đầy đủ, chưa đến với đông đảo quần chúng nhân dân. Vai trò lãnh đạo của chi bộ ở nhiều nơi chưa được phát huy đúng mức; chất lượng sinh hoạt chi bộ vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm. Công tác phát triển đảng viên ở địa bàn dân cư, trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước còn nhiều khó khăn; công tác quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên có nơi còn khó khăn, lúng túng, nhất là với đảng viên không giữ chức vụ, làm hạn chế vai trò tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng lên chưa đều, vẫn còn tình trạng đào tạo chưa gắn với quy hoạch; hiệu quả đào tạo chưa cao, bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo có trường hợp còn bất cập, một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng về đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật kém dẫn đến vi phạm, phải xử lý kỷ luật.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do:

- Nhận thức của một số cấp ủy, đảng viên về vị trí, vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng chưa đầy đủ; một bộ phận đảng viên còn ỷ lại, có tư tưởng khoán trắng công tác xây dựng Đảng cho cấp ủy, bí thư chi bộ.

 - Phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của một số cấp ủy, đảng viên là người đứng đầu trong các tổ chức hệ thống chính trị ở cơ sở chưa thật sự đổi mới; chưa thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới; chưa quan tâm nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Tinh thần trách nhiệm, tính chủ động của người đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ còn thấp; còn nể nang, ngại va chạm trong phê bình và tự phê bình.

Qua 10 triển khai thực hiện, rút ra Bài học kinh nghiệm như sau :

- Các cấp ủy phải thường xuyên quán triệt về vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, chi bộ và cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chương trình hành động số 15-NQ/TU của Tỉnh ủy; tăng cường kiểm tra, giám sát đôn đốc chỉ đạo việc triển khai thực hiện, kịp thời tổ chức sơ kết, tổng kết, biểu dương, nhân rộng những tổ chức, cá nhân điển hình.

- Phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về  công tác xây dựng Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tinh thần tự phê bình và phê bình là giải pháp quan trọng, hiệu quả để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

- Thường xuyên rà soát, bổ sung quy chế làm việc của cấp ủy, chi bộ, chuẩn bị tốt nội dung trước mỗi kỳ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, chú trọng giải quyết những vấn đề phát sinh trong phạm vi lãnh đạo, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; xây dựng nghị quyết phù hợp tình hình đơn vị, địa phương để thực hiện.

- Cần xem trọng, nâng cao chất lượng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng và của cấo ủy cấp trên, gắn với phân công nhiệm vụ cụ thể, đầy đủ; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chương trình hành động do cấp ủy đề ra.

- Thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở cơ sở, góp phần tích cực nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức đảng, các tổ chức Mặt trận, đoàn thể chính trị xã hội trong hệ thống chính trị.

Để tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 15-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XI) trong thời gian đến đạt kết quả cao hơn với Yêu cầu chung là: Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,  đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm phát huy tốt vai trò là “hạt nhân chính trị” ở cơ sở, do đó cần tập trung thực hiện tốt một số  nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau;

 Một là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII); đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào sinh hoạt chi bộ định kỳ, trở thành việc làm thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên; từ đó không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hai là: Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các tổ chức đảng cho đồng bộ với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc, xác định đúng đắn vai trò và mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức đảng với chính quyền và các tổ chức đoàn thể. Đảm bảo vừa giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ chức đảng, vừa tôn trọng, phát huy chức năng quản lý nhà nước của chính quyền và hoạt động theo điều lệ của các tổ chức Mặt trận, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.

Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ, nhất là chi bộ thôn, khu phố nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, đồng thời với mở rộng dân chủ, xây dựng và phát huy văn hóa trong Đảng; nhằm phát huy vai trò của đảng bộ, chi bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị.

Ba là: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cấp ủy cơ sở.

Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về công tác cán bộ bảo đảm đồng bộ, thống nhất. Đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là ở cơ sở; quan tâm đến chất lượng quy hoạch cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số phù hợp. Chú trọng luân chuyển cán bộ huyện về cơ sở, gắn luân chuyển với điều động, sắp xếp, bố trí cán bộ theo yêu cầu vị trí công tác; thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn; có cơ chế, chính sách hỗ trợ cán bộ đi học để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đạt chuẩn theo quy định.

Bốn là: Chú trọng công tác phát triển đảng viên mới đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng, coi đó là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Phát động các phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội nhằm tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng và tạo nguồn cho công tác kết nạp đảng viên. Hằng năm, các cấp ủy trực thuộc tỉnh, Ban Tổ chức cấp ủy lập kế hoạch, hướng dẫn cho các cấp ủy cơ sở chủ động xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên mới và tổ chức thực hiện; phấn đấu mỗi năm, Đảng bộ tỉnh kết nạp 2.000 đảng viên mới trở lên và bảo đảm chất lượng.

Thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên và đổi mới công tác phân công nhiệm vụ cho đảng viên; phối hợp tốt giữa các cấp ủy để quản lý đảng viên ở nơi công tác và nơi cư trú.

Năm là: Cụ thể hóa các tiêu chí, quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, địa phương. Đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, kết quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.           

Sáu là: Tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện của các cấp ủy, đẩy mạnh công tác tự kiểm tra, công tác giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề của cấp ủy ở cơ sở để kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng những đơn vị, cá nhân làm tốt, nhắc nhở và chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót, xử lý nghiêm những sai phạm./.


Các tin khác

TÀI LIỆU